Dưới đây là nội dung sự tích Trầu Cau, các phụ đọc cho bé nghe để bé hiểu được nguồn ốc của tục ăn trầu, cau ở Việt Nam nhé!
Ngày xưa, vào đời Hùng Vương, có gia đình họ Cao có hai người con trai giống nhau như đúc, đến nỗi người ngoài không phân biệt được đâu là anh, đâu là em. Người anh tên là Tân, người em tên là Lang.

Cha mẹ Tân và Lang mất sớm, hai anh em vốn đã rất yêu thương nhau, nay gặp cảnh hiu quạnh lại càng thương nhau hơn.
Không còn được cha mẹ dạy dỗ nữa, Tân và Lang đến xin học ông đạo sỹ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ, lại là người đàng hoàng, đứng đắn nên được thầy thương yêu như con.
Thầy Lưu có một cô con gái chừng 16, 17 tuổi xinh đẹp và duyên dánh, tính nết hiền dịu. Thấy hai anh em Tân và Lang chăm chỉ chịu khó lại học giỏi nên đem lòng yêu mến và muốn lấy người anh làm chồng. Thầy Lưu đồng ý gả con gái cho Tân.

Từ ngày có vợ thì tình cảm của Tân với Lang có phần xa cách, không còn được thắm thiết như trước nữa. Lang rất buồn, nhưng Tân vô tình không để ý đến.
Một hôm Tân và Lang đi làm nương gần tối mới về. Lang vào nhà trước, chị dâu trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Lang liền kêu lên, cả hai cùng xấu hổ. Giữa lúc ấy, Tân cũng bước vào nhà.

Từ hôm ấy, Tân nghi ngờ Lang có tình ý với vợ mình, tình cảm giữa hai anh em ngày càng lạnh nhạt. Một buổi chiều, hai anh chị đi vắng, vừa buồn vừa tủi và cô quạnh, Lang bỏ nhà đi và chàng theo con đường mòn đi mãi vào khu rừng trước mặt.
Trời bắt đầu tối, trăng đã lên mà Lang vẫn cứ đi. Đi mãi đến một con suối rộng, nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Buồn quá, chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng.
Đêm mỗi lúc một khuya, sương mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt. Chàng chết và ngồi trơ trơ biến thành một tảng đá. Tân cùng vợ về nhà, không thấy LLang đâu, Tân lẳng lặng đi tìm không nói cho vợ biết.
Chàng cũng theo con đường mòn đi thẳng vào khu rừng mà Lang đã đi. Đến con suối và không thể lội quan được, Tân đành ngồi bên bờ suối, tựa lưng vào một tảng đá. Trông tảng đá hình người nhớ tới em, Tân cảm thấy có lỗi vì ít quan tâm đến em như trước.
Sương cứ xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Thấy mình có lỗi với em, Tân vẫn ngồi khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không canh, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, người vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng cũng gặp con suối nước sâu xanh biếc.
Nàng không còn đi được nữa, đành ngồi tựa lưng vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu, đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng.
Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã than khóc. Chưa qua một đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân dài lêu n ghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.

Về sau, chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, Vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho Vua nghe và Vua đã đến xem. Nghe chuyện, Vua nảy ra một ý.

Vua bảo lấy lá cây leo và quả cây không cành nghiền với nhau thì thấy vị cay cay, nhai thấy thơm ngon và ngổi nước vào tảng đá thì thấy nước biến ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cây mọc thẳng là cây Cau, câu leo là cây Trầu, tảng đá bên cạnh là đá vôi đem về nung cho xêops ăn với Trầu Cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người tuy đã chết, nhưng vẫn keo sơn, thắm thiết cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng Trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương duyên.
Và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn Trầu trở nên cố hữu và là truyền thống tốt đẹp của dân Việt Nam.
