Dưới đây là nội dung sự tích Bánh Chưng Bánh Giầy, cùng với đó là ý nghĩa của câu chuyện, các phụ huynh tham khảo và đọc cho bé yêu nhà mình nhé!
Ngày xưa ở nước ta, vua Hùng Vương thứ 6 có người con trai út tên là Lang Liêu. Các hoàng tử khác đều văn hay võ giỏi, nhưng lại không thích lao động chân lấm tay bùn. Chỉ riêng có Lang Liêu là chăm chỉ hiền lành, ưa nghề trồng trọt. Chàng đem vợ con về quê vỡ ruộng cuốc đất, cùng sống với bà con nông dân.

Một dịp cuối năm, vua Hùng Vương cho vời đông đủ các con đến và bảo:
– “Đến ngày hội lớn đầu năm, ai tìm được của ngon vật lạ nhất đem đến để tế trời đất, Tiên vương thì sẽ được nhường ngôi”.
Các hoàng tử tỏa đi khắp bốn phương. Người thì lên rừng đốc thúc bộ hạ săn thú, bắn chim.
Kẻ thì xuống biển bắt dân chài mò trai, bắt cá. Ai cũng muốn tìm được của ngon vật lạ đem về tiến lễ để được kế vị.
Riêng Lang Liêu rất lo lắng không biết tìm vật gì dâng lên vua cha. Một hôm đi thăm đồng, Lang Liêu thấy ruộng lúa nếp nhà mình đã chín vàng, những hạt nếp vừa mẩy, vừa thơm. Thật chẳng còn gì quý giá hơn thế nữa.
Chàng về gọi vợ cùng bà con trong xóm ra đồng gặt lúa. Quá trưa, lúa đã gặt xong, mọi người vui vẻ gánh từng bó lúa trĩu nặng trở về.
Tối đó khi ăn cơm, nhìn lên bầu trời đêm trong vắt, mênh mông, nhớ đến cảnh đồng lúa bao la nuôi sống con người, Lạng Liêu chợt nghĩ:
– “Ta sẽ dùng thứ nếp trắng thơm này để làm hai loại bánh, một loại tròn giống như Trời, một loại vuông giống như Đất. Bánh ngon, thơm lại ngụ ý tới, vua cha hẳn sẽ vui lòng”.
Sáng hôm sau, Lang Liêu đem ý định của mình nói với vợ con. Ai nấy đều mừng, cùng nhau bàn cách làm hai thứ bánh. Họ lấy gạo nếp vo kỹ, đồ xôi thật dẻo, cho vào cối giã mịn rồi nặn một thứ bánh hình tròn, mịn màng và trong trẻo như bầu trời.

Họ lại lấy lá dong tươi gói gạo nếp sống, đỗ xanh để tạo ra thứ bánh hình vuông có màu xanh giống như cây cỏ trên mặt đất. Lang Liêu vào rừng săn lợn lấy thịt làm nhân bánh để tượng trưng cho các loài muông thú.

Bà con xung quanh vốn mến tính hiền lành chăm chỉ của vợ chồng Lang Liêu, thấy hai người bận rộn làm hai thứ bánh quý họ bèn kéo nhau sang giúp đỡ.
Gói xong bánh hình đất, vợ chồng Lang Liêu xếp cả vào nồi lớn, nhóm lửa đun kỹ. Cả đêm, gia đình Lang Liêu quây quần quanh bếp lửa cho đến khi bánh chín.

Sáng hôm sau, vợ chồng Lang Liêu ngắm nhìn công sức là hai mâm lớn xếp đầy hai thứ bánh quý. Hai thứ bánh quả là món quà quý nhất, ngon nhất, lạ nhất để chàng dâng lên chúc thọ vua cha nhân ngày hội lớn đầu năm.
Đúng ngày hội lớn, các hoàng tử dâng lên vua cha đủ loại của ngon vật lạ từ khắp mọi nơi. So với các món sơn hào hải vị, chỉ có lễ vật của Lang Liêu đơn giản hơn cả. Nhưng sau khi nghe Lang Liêu tâu trình rõ cách làm và ý nghĩa của hai thứ bánh quý thì vua cha rất vui mừng và cảm động.

Hai thứ bánh được chọn để dâng tế trời đất, rồi chia cho mọi người cùng thưởng thức. Ai nấy đều tấm tắc khen bánh không chỉ ngon mà còn mang nhiều ý nghĩa. Vua Hùng thứ 6 bèn truyền ngôi cho Lang Liêu. Thứ bánh hình tròn tượng trưng cho Trời được gọi là bánh giầy, còn bánh hình vuông tượng trưng cho Đất được gọi là bánh chưng.
Kể từ đó, vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm, mỗi gia đình đều làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng tổ tiên. Hai thứ bánh trở thành một phần không thể thiếu của người dân Việt Nam mỗi độ Tết đến xuân về.
Ý nghĩa câu chuyện Bánh Chưng Bánh Giày
Sự tích Bánh Chưng Bánh Giầy vừa giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy vừa phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao nông nghiệp, đề cao lao động, thể hiện sự thờ kính Trời, Đất, thờ kính tổ tiên của nhân dân ta.